Họ thật của Hai Bà Trưng là gì? Không phải họ Trưng, rất ít người biết câu trả lời

Hai Bà Trưng là nhân vật lịch sử quen thuộc đối với người Việt. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết về tên họ thật của hai bà.

Bộ sử cổ nhất ở Việt Nam nhắc tới nguồn gốc của Hai Bà Trưng là Đại Việt sử lược. Theo đó, khi nước ta còn là Giao Chỉ, Hai Bà Trưng là chị em sinh đôi. Chị tên Trưng Trắc, em tên Trưng Nhị. Hai bà sinh vào ngày mùng 1 tháng 8 năm Giáp Tuất - năm thứ 14 sau Công nguyên.

Cha của hai bà mất sớm. Trưng Trắc, Trưng Nhị được mẹ là bà Man Thiện (cháu ngoại Hùng Vương) nuôi dạy khôn lớn. Hai bà là người văn võ song toàn, có tấm lòng thương dân đồng thời có ý chí khởi nghĩa quật cường. Sau này, chính hai bà đã khởi binh đánh đuổi quân Đông Hán và thành lập quốc gia, lấy Mê Linh làm kinh đô.

Hai Bà Trưng văn võ song toàn, có ý chí khởi nghĩa quật cường.

Hai Bà Trưng văn võ song toàn, có ý chí khởi nghĩa quật cường.

Theo sử sách ghi chép, đây chính là hai nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Sau khi giặc ngoại xâm bị đánh đuổi ra khỏi biên giới, Trưng Trắc tự phong là vương. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Trưng Trắc được xem là một vị vua trong lịch sử Việt Nam. Bà được gọi là Trưng Nữ vương.

Ai cũng biết Hai Bà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị nhưng không phải ai cũng biết một sự thật, Trưng không phải họ của hai bà.

Có nhiều quan điểm về họ của Hai Bà Trưng. Các nhà sử học hiện đại khẳng định, ở nước vào thời điểm đầu Công nguyên, người dân vẫn chưa có họ.

Dựa theo ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng thuộc dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Do đó, có quan điểm cho rằng họ của hai bà là họ Lạc.

Trong thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc - Nam Việt, họ của vua và các quý tộc thường được dùng làm tên tộc người, tên nước. Trong lịch sử, Hùng Vương còn được ghi là Lạc Vương. Các Lạc hầu, Lạc tướng cũng mang họ Lạc vốn lấy gốc từ tên Lạc Việt. Tương tự, Thục Phán mang họ Thục vì là người nước Thục, là con cháu vua Thục. Triệu Đà là người đến từ nước Triệu nên mang họ Triệu.

Ở thời điểm của Hai Bà Trưng, người Việt chưa có họ.

Ở thời điểm của Hai Bà Trưng, người Việt chưa có họ.

PGS.TS Phạm Quốc Sử - nguyên giảng viên Khoa Lịch sử, Trường ĐHSP Hà Nội từng chia sẻ với báo Giáo Dục Việt Nam: "Năm 40 đầu thế kỷ nước chúng ta chưa có đặt họ mà con cái theo dòng mẹ, dòng ngoại. Cho nên Hai Bà Trưng theo họ Hùng bởi bà Trưng Trắc, Trưng Nhị vốn là dòng vua Hùng".

Thời đó nước ta theo dòng vua Hùng và đề cao chế độ mẫu hệ nên con cái sinh ra thường theo dòng họ bên ngoại. Vì vậy, cũng có thể tạm coi Hai Bà Trưng mang họ Hùng.

Theo PGS.TS Phạm Quốc Sử, Trưng vốn không phải là tên của Hai Bà Trưng. Từ Trưng được cho có gốc là từ "trứng". Trưng Trắc, Trưng Nhị ý chỉ loại trứng tốt nhất và trứng tốt nhì.

GS Nguyễn Khắc Thuần cho biết ở thời đó chưa có họ. Mẹ của hai bà được cho là có tên Trần Thị Đoan. Tuy nhiên, cái tên này thực chất là tên thần phả được đặt sau này (xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18). Trong khi đó, cái tên Man Thiện tức là chỉ người Man tốt. Tên này có thể là tên do người Hán gọi.

Tên của Hai Bà Trưng có thể có nguồn từ nghề dệt lụa truyền trống của người Việt thời xưa. Ngày xưa, trong nghề nuôi tằm lấy tơ, tổ kén tằm có chất lượng tốt được gọi là "kén chắc", tổ kén kém hơn một chút gọi là "kén nhì"; trứng ngài tốt gọi là "trứng chắc", trứng ngài kém hơn gọi là "trứng nhì". Trong sách "Danh tướng Việt Nam", tên của hai nhân vật này vốn là Trứng Chắc và Trứng Nhì, phiên âm Hán Việt là Trưng Trắc, Trưng Nhị.