6 điều vui vẻ nhất kiếp người, bạn có được bao nhiêu?

Khổng Tử cho rằng, làm người có 6 việc được cho là vui vẻ nhất của kiếp người. Vậy sáu điều đó là gì?

Khổng Tử là cổ nhân, lại là bậc thánh nhân, bác học uyên thâm cho nên niềm vui của ông chưa hẳn đã hợp với chúng ta ngày nay, hơn nữa những giải thích dưới đây cũng chưa hẳn đã chuẩn xác. Tuy nhiên, bất luận từ cổ chí kim, rất nhiều đạo lý là tương thông với nhau.

Theo Secret China, khi chúng ta gặp những lúc không vui, hoặc khi khó nạn, sao không thử một lần trải nghiệm qua những việc này xem bản thân mình có tìm được niềm vui hay không?

Rất có thể, chúng ta sẽ tìm được cho mình cách giải quyết vấn đề, hoặc giả hiểu được chính bản thân mình một cách khách quan.

1. Niềm vui học tập

Luận Ngữ viết: “Học nhi thời tập chi, bất cũng duyệt tử” (Nếu có thể thời thời khắc khắc đều ôn tập lại những kiến thức đã học, như vậy chẳng phải rất vui sao?).

Đối với bất cứ ai, học tập chính là một quá trình dần dần tiến bộ, không ai có thể một bước lên mây, một ngày mà thành tài, thân đầy trí thức được. Tri thức là dựa vào việc bản thân không ngừng truy cầu, không ngừng tích lũy mà có.

Trong quá trình học tập, khó khăn, chán nản là điều không tránh khỏi, tuy nhiên, niềm vui và hạnh phúc cũng từ đó mà sinh ra.

Duy chỉ có điều, quá trình học tập không thể truy cầu, một sớm một chiều mà có thể “xóa lớp sương mù, tìm ra chân lý” được.

Chúng ta đều phải thông qua từ từ tiêu hóa, từ từ lĩnh ngộ, mỗi ngày một chút mới có thể chuyển hóa được sức mạnh của tri thức thành sức mạnh tự thân, trở thành người có trí huệ đích thực. Đến lúc đó, niềm vui học tập sẽ tràn ngập trong thân và tâm người học, không gì sánh được.

Nếu có thể thời thời khắc khắc đều ôn tập lại những kiến thức đã học, như vậy chẳng phải rất vui sao?. (Ảnh minh họa)

Nếu có thể thời thời khắc khắc đều ôn tập lại những kiến thức đã học, như vậy chẳng phải rất vui sao?. (Ảnh minh họa)

2. Niềm vui giao hữu

Trong Luận Ngữ viết: “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc tử” (Có bằng hữu từ phương xa đến thăm chẳng phải là điều rất vui sao?).

Nhà thơ Vương Bột có hai câu thơ rất nổi tiếng rằng: “Hải nội tồn tri kỷ, thiên nhai nhược tỉ lân” (Khắp trong biển còn người tri kỷ, góc trời xa mấy cũng thành gần). Cuộc đời mỗi người, có thể kết giao bằng hữu đó chính là việc đáng để vui mừng, đây cũng có thể nói là việc đáng tự hào trong trời đất.

Là bằng hữu không nhất thiết phải ngày ngày hội tụ nhưng lại có thể nhớ về nhau, hiểu về nhau, đây quả là không việc gì trân quý bằng. Mỗi khi nhắc tới người bằng hữu này, liền có thể khiến cho chúng ta từ nội tâm cho đến bề ngoài đều hiện ra sự vui vẻ, an ủi. Nguyên nhân chính là họ hiểu bạn và bạn cũng lại hiểu họ.

Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm, Khổng Tử là người kết giao bằng hữu rộng khắp mọi nơi nên ông lại càng hiểu rõ hơn niềm vui của việc kết giao.

3. Niềm vui của âm nhạc

Luận Ngữ – Thái Bá viết: “Thành vu nhạc” (Yêu thích âm nhạc).

Khổng Tử có một đoạn thời gian học âm nhạc, và đó cũng là quá trình khiến thầy giáo kinh ngạc đến thán phục không ngớt. Khoảng thời gian học nhạc này, Khổng Tử chủ yếu đàm luận về tác dụng giáo hóa của thơ, lễ, nhạc. Đừng cho rằng Khổng Tử là người chỉ am hiểu về đạo lý trời đất mà không hiểu về âm nhạc, nên nhớ rằng, Khổng Tử có một quá trình học nhạc rất kinh điển.

Mỗi ca khúc ông học, không những ông hiểu rõ từng nốt nhạc mà còn hiểu rõ tác giả viết. Kỳ thực thời đại của Khổng Tử chính là thời đại lễ nhạc bị suy thoái, cho nên ông là người rất dụng tâm phục hưng lại lễ nhạc. Nếu là người không am hiểu lễ nhạc, sao ông có thể làm được việc đó.

Khổng Tử cho rằng một người yêu thích âm nhạc có thể từ từ bồi dưỡng ra nhân cách tốt đẹp, nguyên nhân bởi âm nhạc là kết hợp giữa sự thiện lương và mỹ diệu, là giao thoa của trời đất.

4. Niềm vui sơn thủy

Luận Ngữ – Ung Dã viết: “Tri giả lạc thủy, nhân giả lạc sơn” (Người minh trí thì yêu nước, người nhân nghĩa thì yêu núi).

Có lẽ những người thích núi non sông nước đều đồng ý với câu nói này. Bậc minh trí yêu thích nước cũng là bởi vạn sự trên đời luôn thiên biến vạn hóa không ngừng, và nước cũng lại như thế, vạn sự tùy duyên, uyển chuyển thay mình tùy theo thế sự. Còn bậc nhân nghĩa thích núi chính bởi sự ung dung tĩnh lặng, trầm lặng của núi.

Khi đối diện với núi sông trùng điệp, cảnh tượng hùng vĩ thì nào ai có thể không động lòng vui vẻ? Khi cảm xúc đến từ nội tâm cùng với sự mỹ lệ của tự nhiên cùng phối ngẫu, chính là lúc mang lại cho con người sự vui vẻ thuần khiết nhất.

Niềm vui

Niềm vui "ngao du sơn thủy" là không thể thiếu trong đời. (Ảnh minh họa)

5. Niềm vui giáo dục

Luận Ngữ – Thuật Nhi Thiên viết: “Học nhi bất yếm, hối nhan bất quyện” (Khi học thì cảm thấy không thỏa mãn, khi dạy thì cảm thấy không biết mệt).

Nói tới điều này, có thể có người cảm thấy học tập là việc vui vẻ, nhưng việc dạy học đôi khi lại nằm ngoài tầm kiểm soát, khiến người ta phải chùn bước. Đặc biệt đối với xã hội chúng ta ngày nay, điều này càng phức tạp hơn.

Tuy nhiên cổ nhân có câu: “Danh sư xuất cao đồ” (Thầy giỏi sẽ dạy ra trò tài). Cảm giác của một người thầy khi đào tạo ra được những nhân tài hữu ích cho xã hội, đó cũng là niềm vui không gì có thể so sánh.

Theo Sử Ký ghi chép, cuộc đời Khổng Tử tổng cộng có 72 người học trò tài năng xuất chúng, mỗi người mỗi tài mỗi nghệ, ảnh hưởng vô cùng rộng lớn tới các thế hệ sau này. Khổng Tử cũng trở thành “Vạn thế sư biểu” danh thơm vạn cổ.

6. Niềm vui ăn uống

Luận Ngữ – Hương Đảng viết: “Thực bất yếm tinh, khoái bất yếm tế” (Lương thực không ngại chế tác tỉ mỉ, thịt thì không ngại cắt nhỏ).

Có lẽ nhiều người cho rằng Khổng Tử không xem trọng việc ăn uống, kỳ thực, đối với vấn đề ăn uống Khổng Tử lại có một nghiên cứu rất công phu. Khổng Tử cho rằng gia vị nêm nếm không vừa khẩu vị thì không ăn, cắt thái không đẹp cũng không ăn, thịt để quá ba ngày cũng không ăn…

Không chỉ vậy mà còn có cả quy định: “Khi ăn không nói, khi ngủ không chuyện”, ăn uống cũng cần phải có hành vi quy phạm. Cho nên, có người nghiên cứu cho rằng, Khổng Tử khi ăn không chỉ là ăn thức ăn mà còn thưởng thức được cả sự tinh túy trong đó, hiểu được cách ăn thế nào mới ngon.

Hậu nhân noi theo giáo điều của Khổng Tử đã lập thành “Những món ăn Khổng phủ”. Chúng ta thử nghĩ, đứng trước một bàn ăn đầy những món không những dậy mùi thơm phức mà còn chế biến tinh xảo đẹp đẽ thì ai lại không vui cho được?.

Cho nên, quan điểm của Khổng Tử đối với ẩm thực sớm đã trở thành một phần của văn hóa, trở thành kim chỉ nam cho sự phát triển ẩm thực Á Đông.