Xe điện VinFast ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên các cung đường phố Việt. Trên các diễn đàn về xe hiện nay, đang có một vài ý kiến xung quanh việc khả năng di chuyển thực tế của các mẫu xe điện VinFast có sự khác biệt rõ rệt so với thông số mà nhà sản xuất đã đưa ra.
Cụ thể, mẫu xe điện VinFast VF e34 hãng công bố một lần sạc đầy có thể di chuyển 285 km. Tuy nhiên, trên thực tế con số tối đa chỉ khoảng 213 km (~ 75% so với mức tiêu chuẩn).
Nếu so sánh một mẫu xe điện khác đến từ Mercedes. Đó là chiếc EQS 450 Plus. Hãng công bố phạm vi di chuyển cho một lần sạc đầy 581 - 692 km.
Nhưng trong điều kiện di chuyển và sử dụng tại Việt Nam, với điều kiện thích hợp khả năng di chuyển có thể vượt trên cả con số 692 km mà hãng đã công bố.
Vì sao lại có sự khác biệt đến vậy giữa 2 thương hiệu xe điện? Điều này được giải thích do tiêu chuẩn đánh giá phạm vi hoạt động khác nhau.
Hai mẫu xe điện của VinFast là VF e34 và VF5 được đánh giá theo tiêu chuẩn NEDC. Còn với Mercedes-Benz EQS, hay VinFast VF8 và VF9 được đánh giá theo tiêu chuẩn WLTP.
Vì sao các hãng xe lại chọn những tiêu chuẩn riêng để đánh giá phạm vi hoạt động. Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu sâu hơn về khái niệm của từng tiêu chuẩn. Sau đó phân tích những điểm khác nhau giữa 2 tiêu chuẩn để tìm ra câu trả lời xác đáng nhất.
Tiêu chuẩn NEDC mà VinFast VFe34 sử dụng ra đời từ những thập niên 80 của thế kỷ trước và được cập nhật mới nhất vào năm 1997.
Các bài kiểm tra được thực hiện trong phòng thí nghiệm, thu thập dữ liệu trong điều kiện lý tưởng, dựa trên điều kiện vận hành ở châu Âu chứ không phải từ điều kiện địa hình tại các quốc gia trên thế giới.
Điều này khiến kết quả đánh giá từ NEDC dần trở nên không chính xác đối với điều kiện lái xe thực tế và hiện đại.
Sau khi nhận thấy những bất cập trong tiêu chuẩn NEDC, UNECE - Ủy ban Kinh tế Liên Hiệp Quốc Châu Âu đã ban hành Tiêu chuẩn WLTP vào ngày 1/9/2017.
Theo đó, WLTP sẽ thay thế hoàn toàn NEDC và trở thành tiêu chuẩn bắt buộc đối với xe ô tô hạng nhẹ muốn lưu thông tại châu Âu.
Giữa NEDC và WLTP có tới 9 sự khác biệt. Đó là lý do vì sao NEDC đã bị loại bỏ hoàn toàn trong điều kiện thử nghiệm hiện nay.
Bảng so sánh giữa tiêu chuẩn NEDC và WLTP | ||
Tiêu chí | NEDC | WLTP |
1. Chu kỳ kiểm tra | Chu kỳ thử nghiệm đơn lẻ | Chu kỳ thử nghiệm đa dạng và sát với thực tế vận hành. |
2. Thời gian diễn ra chu kỳ | 20 phút | 30 phút |
3. Độ dài chu kỳ | 11 km | 23.25 km |
4. Điều kiện vận hành |
Kiểm tra ở 2 điều kiện: 66% đô thị 34% ngoài đô thị |
Kiểm tra ở 4 điều kiện: 52% đô thị 48% ngoài đô thị |
5. Tốc độ trung bình | 34 km/h | 46.5 km/h |
6. Tốc độ tối đa | 120 km/h | 131 km/h |
7. Trang bị kèm theo | Những tác động làm thay đổi lượng khí thải CO2 hay nhiên liệu không được tính đến. | Trang bị bổ sung khác biệt giữa các xe được coi là yếu tố làm thay đổi kết quả. |
8. Quá trình chuyển số | Các mẫu xe đánh giá áp dụng chung cách thức chuyển số | Mỗi mẫu xe có thể áp dụng kiểu chuyển số khác nhau |
9. Nhiệt độ thử nghiệm | Trong khoảng 20-30 độ C | Khoảng 23 độ C |
Với những điểm khác biệt ở trên, có thể thấy được rằng. Tiêu chuẩn NEDC chỉ phù hợp khi hãng xe muốn quảng bá khả năng tối đa mà mẫu xe có thể thực hiện hay tổ chức cuộc thi về lái xe tiết kiệm nhiên liệu.
Còn trên điều kiện thực tế, mức di chuyển chính xác theo tiêu chuẩn NEDC phải trừ hao từ 20-25%.
Đối với tiêu chuẩn WLTP, khách hàng có thể yên tâm trong quá trình ở ngay điều kiện bình thường cũng có thể đạt được con số mà nhà sản xuất công bố.
Hoặc trong điều kiện thuận lợi có thể đạt được con số lớn hơn thế. Ví dụ khi di chuyển trong thời tiết mùa xuân, nhiệt độ ngoài trời chỉ dao động 20-25 độ C nên phạm vi hoạt động có thể tối ưu hơn.
Xét riêng đối với điều kiện sử dụng xe điện Việt Nam, thời tiết hai mùa hè và đông có phần khắc nghiệt hơn. Bởi nhiệt độ khi di chuyển ngoài trời vào mùa hè lên tới 45-50 độ C hay 3-4 độ C khi trời vào đông.
Đây là những điều kiện bất lợi dành cho xe điện và khiến con số khi di chuyển thực tế sẽ có sự sai lệch so với đánh giá ban đầu.
Mức chênh lệch đối với VinFast VF e34 hay với mẫu xe VF5 sắp tới ra mắt được đánh giá theo tiêu chuẩn NEDC có thể tạm chấp nhận khi đã tìm ra được điểm mấu chốt của vấn đề.
Đối với VF8 và VF9, khách hàng có thể yên tâm thông số mà nhà sản xuất đưa ra. Bởi hai mẫu xe này đều được đánh giá theo tiêu chuẩn WLTP mới nhất.